Những bài văn hay 5
giám thị ắt hẳn sẽ kinh hoàng khi đọc thấy cái mở bài này: “Hôm nay, bữa thi đầu tiên, thấy thầy giám thị phát đề văn, thầy đi đi lại lại, y chang mấy người lính tây tiến nên em có cảm hứng phân tích một đoạn bài Tây Tiến”.
1. “Quân xanh màu lá tức là màu xanh của màu huy vọng mông rằng quân ta tòn thắng”; “ Sông Mã gầm lên là vì tuy các anh đã được dùi xâu dưới lòng đất đến thiên nhiên cảnh vật cũng phải khiếp sợ huống chi là con người nên sông mã mới gằm lên um sùm như thế chứ”; “Chiến trường đi không tiếc đời anh đời anh câu thơ thực là dí dỏm tinh nghịch quá”. Quang Dũng mà sống lại có lẽ cũng phải... bó tay!
2. Bài thơ "Chiều tối" của Bác Hồ làm ta nhớ đến câu thơ của Nguyễn Du:
"Chim hôm thoi thóp về rừng" hay câu thơ "ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi"của Bà huyện Thanh Quan.
Nhưng so sánh, ta thấy rõ chim Bác Hồ khác hẳn chim Nguyễn Du, và càng
khác hơn chim Bà huyện Thanh Quan. Chim Bà huyện thì tự nhiên mỏi, còn
chim Bác Hồ là con chim phi thường, nó mỏi có mục đích "chim mỏi về rừng
tìm chốn ngủ".
3. Qua bài thơ "Chiều tối", ta thấy Bác Hồ đã dùng chim để mô tả nội tâm.
Làm sao Bác biết chim mỏi,nó nói với Bác chăng?
Không, nó không nói với Bác, mà chỉ cần nhìn Bác cũng biết nó mỏi.
4. Vào cái đêm trăng sáng, Chí Phèo đi gặp Thị Nở trong vườn chuối. Chí
ôm chặt Thị và định giở trò. Lúc đầu Thị Nở cũng định phản ứng, nhưng
rồi thấy xung quanh vắng vẻ, mà Chí lại ôm chặt quá, nên rồi Thị
cũng...mặc kệ.
- Vẫn còn không ít những bài văn ngô nghê của các cô tú cậu tú mà khi đọc, giám khảo (GK) phải cười ra nước mắt. Một GK chấm thi TSĐH môn Ngữ văn tại TP.HCM đã ghi nhận lại một số đoạn trong bài làm của thí sinh (TS) qua bài viết dưới đây.
Thanh Thảo yêu… cô gái di-gan
Có lẽ nhà thơ Thanh Thảo sẽ hết sức ngạc nhiên khi đọc được bài làm của một TS viết về ông và bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca: “Thanh Thảo sang Tây Ban Nha thi đấu bò tót gặp cô gái Di-gan man dại và yêu tha thiết, khi về được cô ấy tặng cây đàn bọt nước màu nâu nên về đến nhà ông nhớ da diết viết bài thơ này. Chỉ cần hai câu “tiếng ghi ta nâu - bầu trời cô gái ấy” nói hết chuyện đó, đọc vào là hiểu liền…”.
Một TS tỏ ra bài bản khi dẫn câu thơ đề từ “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” và bình luận: “Cây đàn gắn với Thanh Thảo nên khi chết tiếc chôn theo luôn làm kỷ vật, đó là ước muốn không chỉ riêng gì Thanh Thảo mà của bất cứ ai có vật gì gắn với mình, nhưng đâu phải cái gì cũng chôn được, giả tỉ thầy cô đi dạy chết chỉ chôn cây viết, cục phấn chứ làm sao chôn tấm bảng theo được, chỗ đâu mà chôn?...”.
Có TS thật thà: “Thầy của em nói bài thơ này hay lắm, em ráng nghe theo nhưng nói thiệt là em hổng hiểu gì hết, chỉ nhìn vào hình thức đã thấy sai chính tả vì đầu câu mà chẳng viết hoa, rồi thơ câu dài câu ngắn khó học thuộc quá nên làm sao mà hay được? Trả bài ở lớp hai lần bài này không thuộc mà giờ lại ra đề thi làm sao biết mà làm?”.
Một TS khác, có lẽ yêu bóng đá và hâm mộ đội bóng xứ sở bò tót nên chỉ viết vỏn vẹn “Tây Ban Nha vô địch!!!” trong bài làm cảm nhận về ba đoạn thơ của Thanh Thảo.
Chí Phèo và Hộ còn khổ hơn chị Dậu
Đó là khẳng định trong một bài làm của sĩ tử khi cảm nhận về chi tiết “bát cháo hành” mà nhân vật Thị Nở mang cho Chí Phèo và chi tiết “ấm nước đầy và nước hãy còn ấm” mà nhân vật Từ dành sẵn cho Hộ. TS này viết: “Trước khi đọc Chí Phèo và Đời thừa em cứ nghĩ trong xã hội chị Dậu là người khổ nhất vì chị bán bầy chó và bầy con vẫn không đủ tiền nộp thuế cho chồng và chuộc người đã chết. Nhưng khi học xong hết em mới rút ra một kinh nghiệm hết sức bổ ích là Phèo và Hộ còn khổ hơn Dậu vì không có gì để bán nên Chí Phèo đi bán cháo hành, Hộ làm nhà văn mà chẳng viết được tác phẩm nào phải đi phụ vợ bán nước, rồi chuyện cơm áo đè lên khiến anh phải bán luôn cái ấm trong khi nước đầy và hãy còn ấm trên bếp… Thử hỏi có ai trong chúng ta khổ hơn không chứ?...”.
Bài làm này còn hào hứng đi vào phân tích cách thức… nấu cháo hành: "…Muốn nấu cháo hành thì phải có gạo, có nước, có nồi, có bếp mà hồi đó toàn dùng bếp củi làm gì có bếp ga bếp điện như bây giờ nên phải có củi, đặc biệt cháo hành thì hiển nhiên thứ vật dụng không thể không cho vào nồi cháo là hành…”.
Hoàn cảnh và địa điểm gặp gỡ của Chí Phèo và Thị Nở được TS “sáng tạo” đến bất ngờ: “Chí Phèo thấy Thị Nở trôi dạt trên chiếc thuyền nhỏ, ghé mắt vào nhìn thấy nàng nằm tênh hênh trống hoác có gì thôi thúc như là tình yêu. Họ ăn nằm với nhau lênh đênh trên biển qua đêm. Sáng tỉnh dậy Thị Nở thấy Chí Phèo mệt đừ, nằm co ro một chỗ… Không đẹp bằng chị bằng em nhưng Nở dịu dàng, chăm sóc Chí Phèo chu đáo khiến anh xúc động khóc. Thấy vậy Thị Nở mần liền mấy món ngon đãi nhưng Chí Phèo chọn ngay tô cháo hành vì từ hồi nào tới giờ ở tù đâu được ăn cháo hành nên ai chưa ăn thì không biết nó ngon cỡ nào…”.
Muôn kiểu “ngạc nhiên”
Cách trả lời các câu hỏi trong đề thi của TS đã khiến GK “đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác”, như cách nói của một GK chấm chung với chúng tôi. Xin liệt kê ra đây vài dẫn chứng minh họa:
“…chính Bá Kiến đã tàn phá hết công lực của Chí Phèo nên anh chàng lực sĩ khỏe mạnh như con trâu tốt của làng Vũ Đại ra tù trở thành anh Chí tàn phế võ công, không ăn gì nổi chỉ thích ăn vạ…”
“Chí Phèo ra tù đến thẳng nhà Bá Tra đòi nợ…”
“Chí Phèo và Đời thừa là một tác phẩm sử thi lãng mạn anh hùng tiêu biểu nhất của Nam Cao, nhờ đó mà ông đạt giải Nô-ben đầu tiên trong làng thơ ca thế giới…”
“Người lái đò sông Đà là kết quả chuyến đi thực tế Tây Tiến dài tám năm của Nguyễn Tuân!". Nhiều TS không ngại ngần gì khi xếp cả Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nam Cao… là “cây bút tiêu biểu của phong trào Thơ mới” (!)
Hai đoạn thơ khá hay của Hàn Mặc Tử và Huy Cận được TS cảm nhận thật… độc: “…Năm ngoái cô giáo bảo rằng Huy Cận buồn khi ngắm cảnh sông Đà mênh mông sóng biếc. Sau hai năm miệt mài nghiên cứu em thấy cô chưa chắc đã đúng. Khi đọc hai câu thơ “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa - Lòng quê dợn dợn vời con nước” thì thấy rõ Huy Cận đang ngắm chim nghiêng và con nước chứ có ngắm cảnh đâu? Huy Cận phải vận hết công lực mới nhìn thấy được vì chim nhỏ, ở rất xa, bay nghiêng chứ không bay đứng, chiều tối mịt mù thì làm sao thấy?... Hàn Mặc Tử buồn vì cô gái chèo thuyền trên sông Hương mà không biết là ai, có phải người yêu năm cũ không (thuyền ai đậu bến sông trăng đó?), Huy Cận thì buồn vì thấy chim nghiêng khi chiều khuất bóng. Một bên buồn vì con người một bên buồn vì động vật thì đâu có gì giống nhau ngoài chữ buồn…”.
TS khác thì bảo rằng “hai nhà thơ có điểm giống nhau là cùng đi chinh chiến xa nhà, nhìn cái gì cũng nhớ quê hương, nhất là nhớ người yêu. Huy Cận hóa thân vào cánh chim bay về phương Bắc xây tổ yêu thương, Hàn Mặc Tử ví mình như ánh trăng soi sáng trên bầu trời đêm trở về dòng sông tìm người con gái hò hẹn…".